Lễ công bố “Báo cáo thường niên về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,” ngày 10/5, do VAFIE tổ chức. (Ảnh: Vietnam+)
Tại Lễ công bố “
Báo cáo thường niên về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” do VAFIE tổ chức vào ngày 10/5 vừa qua, Giáo sư, tiến sỹ khoa học Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài (VAFIE) đưa ra nhận định: “Tăng trưởng kinh tế thế giới đang chậm lại, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu có thể suy giảm. Thêm vào đó, cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt, do đó Việt Nam khó đạt được mục tiêu về chất lượng và hiệu quả kinh tế-xã hội nếu không sàng lọc các dự án FDI chất lượng cao.”
Số lượng dự án FDI đạt được “trong tầm tay”
Vào ngày 20/8/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW về việc đề ra các
mục tiêu thu hút FDI trong giai đoạn 2021-2030. Theo đó, giai đoạn 1 từ 2021-2025, số vốn đăng ký là 150-200 tỷ USD, vốn thực hiện 100-150 tỷ USD. Trong khi giai đoạn 2 từ 2026-2030 sẽ thu được số vốn đăng ký là 200-300 tỷ USD và vốn thực hiện từ 150-200 tỷ USD.
Nghị quyết cũng đề cao tỷ trọng doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, bảo vệ môi trường, hướng đến công nghệ cao phấn đấu tăng 50%, đồng thời chất lượng lao động qua đào tạo tăng 70%, tỷ lệ nội địa hóa tăng 30% vào năm 2025 và tăng tương ứng 100%; 80% và 40% vào năm 2030 (so với 2018).
Song song đó, Đảng và Nhà nước cũng đề ra mục tiêu thu hút FDI vào kinh tế xanh cũng như quá trình chuyển giao công nghệ xanh (tại Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh).
Theo Giáo sư Nguyễn Mại, mục tiêu về số lượng đặt ra tại Nghị quyết tương đối khả thi dựa trên cơ sở thể chế chính trị và kinh tế vĩ mô của Việt Nam ổn định, thị trường nhiều tiềm năng với gần 100 triệu dân và tầng lớp trung lưu ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng cải thiện và hội nhập quốc tế sâu rộng. Việt Nam cũng có điều kiện để nhà đầu tư giảm chi phí dịch chuyển, cũng như sẵn sàng kết nối ổn định với chuỗi cung ứng toàn cầu.
Việt Nam cũng được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về thị trường mua bán, sát nhập (M&A) trong 2022, cũng như rất hấp dẫn trong những năm tiếp theo.
Giáo sư Mại nhận định: “Thực tế ghi nhận trong năm 2021, nền kinh tế thế giới và FDI toàn cầu cũng như kinh tế trong nước chịu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, tuy nhiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hoạt động của khu vực FDI vẫn đạt được kết quả đáng khích lệ và được đánh giá là điểm sáng trong bức tranh toàn cảnh kinh tế Việt Nam”.
>> Xem thêm: Bình Phước tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư với các doanh nghiệp Singapore
Theo báo cáo gần nhất, Việt Nam là nước thứ 3 trong khu vực có lượng tiếp nhận nguồn vốn FDI lớn thứ 3, cũng như là một trong những nước duy trì tăng trưởng dòng vốn FDI qua nhiều năm tại khu vực các nước ASEAN. Trong năm 2021, số vốn FDI đăng ký đạt 31 tỷ USD, tăng 9% và vốn thực hiện đạt gần 20 tỷ USD, giảm nhẹ 1% so với năm 2020. Tính đến hết 20/12/2021, Việt Nam đã thu hút được số vốn FDI là 408 tỷ USD, với trên 35.500 dự án còn hiệu lực. Ngoài ra số vốn đã giải ngân đạt 62% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực, tương đương 251 tỷ USD.
Nhiều ưu đãi nhưng đóng góp chưa tương xứng
Mặc dù số lượng vốn và dự án FDI thu hút được khá lớn, nhưng chất lượng các dự án không tương xứng, còn tồn tại nhiều bất cập cần khắc phục.
Thời điểm hiện tại, số lượng dự án công nghệ cao đến từ doanh nghiệp thuộc các quốc gia phát triển (như Mỹ và Châu Âu) không nhiều, chưa kể số lượng doanh nghiệp dịch chuyển hoặc thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) còn rất ít. Thống kê cho thấy, chỉ 5% dự án có công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn từ Mỹ và Châu Âu, 80% là công nghệ trung bình, trong khi 15% là công nghệ lạc hậu.
Và dù khu vực kinh tế FDI được xem là động lực thúc đẩy kinh tế quan trọng với tốc độ tăng trưởng luôn ở mức cao so với các khu vực khác, nhưng nhiều doanh nghiệp FDI có đóng góp vào ngân sách nhà nước chưa tương xứng với quy mô dự án, cũng như số lượng ưu đãi mà các doanh nghiệp FDI được hưởng.
Ngoài ra, cơ cấu phân bổ FDI theo vùng và địa phương còn chưa cân xứng. Hầu hết các dự án FDI tập trung ở các vùng có điều kiện thuận lợi tại khu vực Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và các tỉnh, thành phố có trình độ phát triển kinh tế-xã hội cao.
Theo báo cáo, khu vực kinh tế FDI chiếm bình quân 28% tổng thu ngân sách của nhà nước giai đoạn từ 2011-2020. Trong đó, Vĩnh Phúc dẫn đầu với tỷ lệ 93,5%, Bắc Ninh xếp thứ 2 với 72% và Đồng Nai xếp thứ ba với tỷ lệ 63%. Hai địa phương xếp thứ 4 và 5 lần lượt là Bắc Giang (60%) và Bình Dương (52%).
Cần xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả khu vực FDI
Với nhiều bất cập và mặt trái trong tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả của khu vực FDI, hướng đến giai đoạn phát triển mới của đất nước, Nghị quyết 50-NQ/TW đã được Bộ Chính trị xây dựng định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
(Nguồn: VAFIE )
Tuy nhiên với thực tế nên trên, Giáo sư Nguyễn Mại cho rằng khó thực hiện mục tiêu về chất như những gì mà Nghị quyết đề ra trong một thập kỷ tới.
Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu báo cáo đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị cần có chính sách và khuôn khổ pháp luật đồng bộ về đầu tư-kinh doanh, nhằm khắc phục những tồn tại đồng thời triển khai huy động những dự án mới đảm bảo về chất theo mục tiêu để ra. Cùng với đó, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu các mô hình khu thương mại tự do, trung tâm tài chính với chiến lược phát triển
khu công nghiệp, khu kinh tế giai đoạn 2021-2030 hướng tới chủ trương sẽ áp dụng “thuế tối thiểu toàn cầu” tại Việt Nam.
Ngoài ra, nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp FDI, Giáo sư Nguyễn Mại cũng kiến nghị về đổi mới nhận thức và thống nhất hành động. Đồng thời, các cơ quan chịu trách nhiệm về khu vực kinh tế FDI cần tăng cường kiểm tra, giám sát và đồng thời có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn và hoàn thiện quy định Bộ Tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài.
Giáo sư cũng nhấn mạnh: “Chính phủ cần sớm ban hành Quyết định về Bộ Tiêu chí đánh giá hiệu quả khu vực FDI, chỉ đạo các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương thực hiện nghiêm chỉnh trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI”.
Với yếu tố con người là trọng tâm quyết định, Giáo sư Nguyễn Mại cho rằng, để đạt được các mục tiêu đã đề ra, hiệu năng quản lý Nhà nước về FDI cần phải được nâng cao, ưu tiên đổi mới và đa dạng hóa các công tác xúc tiến đầu tư, thẩm định, kiểm tra, giám sát. Đồng thời, Việt Nam cần đẩy nhanh cải cách bộ máy, tỉnh giản biên chế trong hệ thống công chức.